Ứng dụng của nội soi thú y trong việc thu thập tế bào trứng của bò trong thụ tinh trong ống nghiệm
Ứng dụng nội soi thú y trong việc lấy noãn bò, thụ tinh trong ống nghiệm.
Tỷ lệ phục hồi của noãn được lấy bằng kỹ thuật nội soi đơn giản hơn so với lấy trứng trực tiếp từ buồng trứng. Ngoài ra, nội soi ổ bụng thú y có thể được sử dụng để kiểm tra sự phát triển của nang trứng.
Đặt ống nội soi: Đưa trocar cùn vào ống thông, đưa ống vào âm đạo, định vị đầu trước của ống nội soi ở vị trí xác định trước của vòm âm đạo thông qua nắm trực tràng, sau đó rút trocar cùn, đưa trocar kim tự tháp, và điều chỉnh góc độ. Làm cho hướng của trocar và trục dài của bò hơi sang phải một góc 10 °, và mạnh mẽ thâm nhập vào vòm âm đạo hướng lên trên. Nếu điện trở giảm đột ngột, chứng tỏ vòm âm đạo đã bị đâm thủng. Lúc này, lấy trocar ra. Khi nghe thấy tiếng khí đi vào và tay cầm trực tràng cảm nhận được sự giãn nở của khoang bụng đồng thời chứng tỏ vị trí xỏ lỗ đã chính xác. Vỏ bọc bằng thép không gỉ với ống nội soi được lắp vào ống tay áo. Theo cảm nhận của trực tràng, nếu khoang nhỏ, nó cần được lấp đầy bằng một số khí CO2. Tốc độ hút gió thường được kiểm soát ở mức 7 ~ L / phút. Lượng xăng đổ đầy tùy thuộc vào kích thước của bò."Nói chung, nó là khoảng 9L.
Lấy noãn: Người điều khiển trực tràng phải liên tục điều chỉnh vị trí của ống soi và buồng trứng, đồng thời hiển thị hình dạng của nang và thể vàng ở các vị trí khác nhau trên buồng trứng, để xác định những nang cần chọc. Một phụ tá nắm mật khẩu của người điều hành và nang trứng hiển thị trên màn hình theo trực tràng, vận hành kim chọc hút, lấy dịch nang và đưa dịch nang vào ống thu đã được bổ sung một lượng nhỏ dịch nuôi cấy. Một trợ lý khác chịu trách nhiệm vận hành bơm chân không. Để ngăn ngừa sự mất noãn, nên khởi động bơm chân không (áp suất âm phải là 100mm Hg) trước khi chọc hút. Sau khi thu thập, dịch nang được đặt vào giá ống nghiệm trong 5 - 10 phút, và dịch nang ở đáy ống thu được hút vào đĩa bằng ống hút, sau đó quan sát dưới kính hiển vi quang học. Và các tế bào trứng được phát hiện được hút vào ống mỏng. Hai đầu ống mỏng được bịt kín, có thể vận chuyển noãn đến phòng thí nghiệm để nuôi cấy trưởng thành. Sau khi mổ xong, nòng ống nội soi được đưa ra ngoài, đồng thời hai phụ xe ấn vào hai bên thành bụng của bò để tống hết khí trong ổ bụng ra ngoài. Khi khí hư không còn, ống thông được đưa ra ngoài và kiểm tra âm đạo cách ngày để tránh nhiễm trùng. Hai đầu ống mỏng được bịt kín, có thể vận chuyển noãn đến phòng thí nghiệm để nuôi cấy trưởng thành. Sau khi mổ xong, nòng ống nội soi được đưa ra ngoài, đồng thời hai phụ xe ấn vào hai bên thành bụng của bò để tống hết khí trong ổ bụng ra ngoài. Khi khí hư không còn, ống thông được đưa ra ngoài và kiểm tra âm đạo cách ngày để tránh nhiễm trùng. Hai đầu ống mỏng được bịt kín, có thể vận chuyển noãn đến phòng thí nghiệm để nuôi cấy trưởng thành. Sau khi mổ xong, nòng ống nội soi được đưa ra ngoài, đồng thời hai phụ xe ấn vào hai bên thành bụng của bò để tống hết khí trong ổ bụng ra ngoài. Khi khí hư không còn, ống thông được đưa ra ngoài và kiểm tra âm đạo cách ngày để tránh nhiễm trùng.
Các biện pháp phòng ngừa:
1. Gây tê: không quá nông hoặc quá sâu. Gây mê hiệu quả là điều kiện tiên quyết để hoàn thành quá trình chọc hút nang trứng để lấy noãn. Nếu gây mê quá nông, bò sẽ cảm thấy đau, ảnh hưởng đến độ chính xác của cuộc mổ, cần bổ sung thuốc mê. Nếu gây mê quá sâu, bò sẽ không đứng vững, thậm chí nằm không cũng ảnh hưởng đến quá trình mổ. Nếu bò đang nằm thì phải dừng ngay cuộc mổ, nhanh chóng rút ống thông, ống nội soi. Đồng thời, cần chú ý thả Bảo bối kịp thời để tránh bò bị thương.
2. Thủng: Người cầm nắm trực tràng cần nắm chính xác góc đâm khi chọc thủng vòm âm đạo để tránh làm thủng trực tràng và ruột già. Khi chọc vào nang trứng, không nên chọc kim quá sâu, nếu không sẽ làm tổn thương chất buồng trứng và gây xuất huyết. Điều này không chỉ làm ô nhiễm dịch nang, ảnh hưởng đến việc phát hiện noãn, gây tắc ống dẫn trứng mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của các nang noãn trên buồng trứng. hồi phục. Trong trường hợp chảy máu, phải ngừng chọc nang ngay lập tức, thay kim và catheter và ống thu, bơm rửa kim và catheter bằng dung dịch muối 0,01mg heparin / ML trước khi chọc nang tiếp theo.
3. Thu dịch nang: Dịch nang thu được nên được giữ ở nhiệt độ ổn định càng nhiều càng tốt. Tốt nhất là phát hiện tế bào trứng ngay sau khi thu hái, và cho chúng vào môi trường nuôi cấy trưởng thành có chứa FSH, gói chúng trong các ống mỏng và vận chuyển đến phòng thí nghiệm, nói chung từ khi thu hoạch đến khi ủ để nuôi cấy trưởng thành không được quá 4h.
4. Kỹ năng: Để sử dụng thành công phương pháp này không chỉ cần thiết bị tốt mà còn đòi hỏi người vận hành phải có kiến thức cao và thành thạo trong vận hành thực tế, cũng như sự hợp tác chặt chẽ với hai trợ lý. Do đó, việc đào tạo cần thiết phải được thực hiện trước khi vận hành thử nghiệm.
Ngoài ra, phương pháp này cũng có thể được sử dụng để lấy trước noãn từ bò non, do đó tăng thời gian sử dụng và khả năng sinh sản của bò, đồng thời đẩy nhanh tiến độ di truyền. Phương pháp này sẽ là một cách tốt để có được nguồn trứng sau khi thụ thai và sử dụng các buồng trứng biệt lập.